TỪ NGỮ MINH TRIẾT THIÊNG LIÊNG

TỪ  NGỮ
Minh Triết Thiêng Liêng.

 

Bảng từ ngữ  chỉ ghi một số chữ thường gặp trong tài liệu Theosophia, cho giải thích dễ hiểu, ngắn gọn nhất để giúp bạn nắm ý chính khi đọc nguyên tác Anh văn, mà không đi sâu vào phần chuyên môn. Muốn biết đầy đủ hơn về nghĩa mỗi chữ, xin đọc thêm Theosophical Glossary – HPB và Theosophical Encyclopedia – Vic Hao Chin edit.

(Sans.): Sanskrit, Phạn ngữ.
(Lat.): Chữ Latin.
(Gr.): Chữ Hy Lạp.

 

–Adept.  Nghĩa thông thường là vị đạo sư, hay ai thông thạo một ngành, thuật gì. Nghĩa riêng trong sách vở TTH là vị Chân sư, bậc có từ năm lần chứng đạo trở lên.
–Agnosis. Bất thông, thuyết cho rằng con người không thể biết được nhiều chuyện bí ẩn trong cuộc sống.
– Akashic Records. Thiên Ảnh ký. Mọi sự việc xẩy ra trong vũ trụ được lưu lại nơi đây mãi mãi, và ta có thể đọc được nếu biết cách. Người có thông nhãn nhìn vào đó thấy lại quá khứ lẫn tương lai.
- Angels. Chư thiên, thiên thần, các vị thuộc đường tiến hóa khác song song với con người. Các ngài điều khiển tinh linh (xem chữ Elementals bên dưới) tạo ra hiện tượng trong thiên nhiên. Đức Mẹ - Quan Thế Âm Bồ Tát là Vị chuyển từ đường tiến hóa con người sang hàng ngũ thiên thần.
–Archangel. Đại thiên thần.
–Arhat.La hán, Phạn ngữ, còn dịch là A la hán và viết là Arahat, Arhan, Rahat; là Vị đạt bốn lần chứng đạo. Đôi khi kinh sách gọi chung các vị Bồ Tát và Phật là La hán.
 –Aryan (Sans.) Mẫu chủng thứ năm, không có nghĩa là giống dân thượng đẳng theo chủ nghĩa Nazi của Đức quốc xã. Xem thêm chữ Race bên dưới.
–Atlantis.  Châu Atlantis đã chìm xuống đại tây dương, theo tài liệu cổ đây là nơi cư ngụ của mẫu chủng thứ tư. Lục địa chìm mất hoàn toàn khoảng 800.000 năm về trước. Xin đọc thêm chuyện Vòng Tái Sinh – The Wheel of RebirthMan: A Fragment of Forgotten History đăng trên báo PST và trang web PST.
–Antahkarana. Con đường, cầu nối giữa thượng trí và hạ trí, do chính ta tạo ra cho mình, bằng chất liệu cõi trí.
–Ashram.  Đạo viện, nơi Chân sư qui tụ đệ tử và người chí nguyện để giảng dạy. Xin đọc thêm các bài về Ashram số PST 28, 29 và 62.
–Astral Body. Thể tình cảm, thể vía, Kama Rupa. Tài liệu ghi bình thường nơi người sống thể tình cảm không có hình dạng riêng mà hòa chung với thể hạ trí gọi là Kama Manas. Chỉ sau khi qua đời thể tình cảm mới có hình dạng riêng.
–Atma. Nguyên lý thứ bẩy của con người, là một thành phần của tam thể thượng hay Chân nhân, là phần cao nhất trong con người, được xem là một với Chân thần – Monad, là Tinh Thần. Có đặc tính là Ý Chí. Còn viết là Atman.
–Atomic subplane.  Cảnh thứ nhất của mỗi cõi. Vật chất trong thái dương hệ được chia làm bẩy cõi hay bẩy trạng thái, cõi cao nhất gọi là cõi nguyên tử. Tương tự vậy, mỗi cõi lại chia làm bẩy cảnh, phần thanh nhẹ nhất làcảnh thứ nhất hay cảnh nguyên tử. Do đó có 49 cảnh và trong số này có 7 cảnh nguyên tử. Có sự liên hệ đặc biệt giữa 7 cảnh nguyên tử với nhau.
–Aura.  Hào quang hay phần chất liệu vô hình thanh nhẹ phát ra từ mọi vật, có điện từ lực. Thông nhãn cho thấy đó là khối mầu sắc bao quanh con người, biểu lộ bản chất thật của họ. Họa sĩ mô tả mầu sắc chói lòa nơi bậc thánh nhân như là quầng sáng bao quanh đầu, thấy trong tranh vẽ Chúa, Phật. Hào quang lan rộng ra xa nhiều ít tùy mức phát triển của ta.
–Auric egg. Một tên khác chỉ thể chân thân, do hình dáng của nó.
–Avatara (Sans.) Đấng Hóa thân, Phạn ngữ, thí dụ như đức Phật được xem là đấng Hóa thân của Minh Triết.
–Bhagavat-Gita (Sans.) Chí Tôn ca, là một phần trong vở trường thiên Mahabharata của Ấn Độ, ghi lại cuộc thảo luận của Krishna và đệ tử là Arjuna về triết lý tinh thần cao tột nhất, vô cùng thâm sâu.
–Black Magic.  Tà thuật.
–Bodhisattva. Bồ Tát, Ngài đạt bẩy lần chứng đạo, thuộc cung hai, đứng đầu ngành thứ hai trong Thiên đoàn. Vị hiện đang nắm giữ chức vụ này là đức Di Lặc hay đức Chúa - Christ. Tên này còn có thể dịch là Vị Huấn Sư Thế Giới – World Teacher.  Ngài thể hiện tình thương và minh triết trên địa cầu qua sinh hoạt thuộc cung hai. Vị Bồ Tát đứng đầu mọi tôn giáo trên thế giới, là Đức Thầy của các Chân sư, là bậc Huấn sư của con người và chư thiên.
–Bodies. Các thể của con người.
–Buddha (The).  Tên, danh hiệu chỉ bậc đạt tám lần chứng đạo. Nghĩa riêng chỉ Đức Phật Gautama. Ngài sinh vào khoảng 621 năm trước tây lịch và thành Phật năm 592 trước tây lịch. Ngài đạt mức hiểu biết cao nhất có thể có được cho con người trong thái dương hệ này. Khi trước Ngài đảm nhiệm chức vụ Huấn Sư Thế Giới, sau khi ngài thành Phật vai trò ấy được giao cho đức Di Lặc hay đức Chúa - Christ. Trong tương lai khi đức Di Lặc thành Phật, tới phiên Chân Sư K.H. sẽ thay thế Ngài thực hiện phần việc đó.
–Buddhi.  Bồ đề tâm, tâm hay trí đại đồng. Nguyên lý thứ sáu của con người, là một thành phần của tam thể thượng hay Chân nhân, là vận cụ cho Atma là Tinh Thần là Nguyên lý thứ bẩy. Có liên hệ với trực giác.
–Causal Body.  Chân thân, thể thượng trí. Là thể tương đối trường tồn của chân nhân, được duy trì qua bao kiếp trong khi những thể khác của phàm nhân như thể hạ trí, thể tình cảm, thể xác v.v. tan rã sau mỗi kiếp và được tân tạo khi chân nhân bắt đầu một kiếp mới. Thể chỉ tan rã sau khi con người đạt bốn lần chứng đạo, đắc quả vị La Hán và không còn tái sinh.
Mọi nhân quả, tính chất của một ai được tàng trữ trong thể này, nói khác đi thể chứa đựng căn nguyên cho tình trạng của họ vì vậy được gọi là căn thể. Ta chỉ truy ra được con người thật của bất cứ ai bằng cách nhìn vào thể này. Bởi thể nằm ở cảnh thứ năm (từ dưới đếm lên) của cõi trí, ít người có khả năng làm vậy, thường họ chỉ nhìn vào cõi tình cảm do đó có ít nhiều sai lạc. Lời khuyên chung là ta không nên phán xét một ai để tránh bị sai lầm, giản dị vì ta không biết được lý do đúng tại sao họ hành xử như thế này hay kia.
Khi thể bị tan vỡ vào lúc đạt chứng đạo lần thứ tư, tượng trưng cho lòng từ bỏ hoàn toàn qua việc hủy bỏ công sức tích tụ qua bao kiếp mà kết quả là thể, bậc đạo đồ cảm thấy bị cô đơn vô kể vì họ không còn thuộc vào ba cõi thấp là nơi họ không còn cần trở lại, mà chưa hẳn bước vào những cõi cao là nơi từ nay họ linh hoạt. Cảm tưởng dường như cô đơn ấy được thấy qua lời kêu của đức Jesus trên thánh giá:
- Lạy Cha (Chân thần), sao Cha lại bỏ Con ?
Đó là một cách diễn tả lời ngài, và như mọi chuyện huyền bí, lời trên còn có thể được diễn tả theo cách khác.
– Centre. Huyệt đạo, luân xa, trung tâm lực. Là xoáy lực thấy trong các thể trí, tình cảm, sinh lực.
Huyền bí học dạy là không nên tập mở đặc biệt một luân xa nào, cũng như không nên chú trọng vào nó; các phép luyện hay khai mở luân xa trong đa số sách có thể dẫn tới kết quả bất lợi và nguy hiểm. Cách tốt nhất là để yên chúng mà chăm chú vào việc sửa tánh hạnh, tu thân và giúp đời; một khi đời sống tâm linh tiến bộ các luân xa sẽ tự động phát triển, bởi chúng chỉ là hệ quả tất nhiên của việc trau luyện thân tâm.
– Chakra. Như chữ Centre.                                                  
–Chela (Sans.) Đệ tử.
–Chohan. Bậc đạt sáu lần chứng đạo, ta gọi chung là Chân Sư. Đức K.H. và đức M. là bậc Chohan.
–Christ. Đức Chúa, đông phương biết Ngài như là đức Di Lặc.
–Clairaudience. Thông nhĩ, khả năng nghe được ở cõi thanh, do bẩm sinh hay tập luyện.
–Clairvoyance. Thông nhãn, khả năng thấy được ở cõi thanh, do bẩm sinh hay tập luyện.
–Deva (hay Angel).  Thiên thần.
–Devachan (Sans.) Thiên đàng, tây phương cực lạc, danh từ chung chỉ bốn cảnh thấp của cõi trí, còn gọi là cõi hạ thiên, sắc tướng. Nơi chân nhân bước vào sau cái chết lần thứ hai và con người thải bỏ thể tình cảm. Cõi Devachan đúng nghĩa nằm ở cảnh thứ tư (từ dưới đếm lên) của cõi trí, tức cảnh cao nhất của cõi hạ thiên.
–Dhyan Chohans (Sans.) Chữ có nhiều nghĩa tùy trường hợp, nói chung là các Đấng tiến hóa rất cao, đảm nhiệm nhiều phần việc trong cuộc tiến hóa của vũ trụ nói chung và thái dương hệ nói riêng.
–Disciple. Đệ tử. Khi thấy một người có khả năng và muốn giúp đời. Chân Sư thâu nhận họ và chỉ dạy, làm cho khả năng phụng sự của họ được gia tăng, còn việc người ấy cùng lúc được phát triển về tâm linh là chuyện phụ và không hề là lý do chính để được thâu nhận; nói cách khác, Chân Sư đi tìm và được hấp dẫn bởi lòng thành tâm giúp đời, mà không phải ước ao được tiến bộ tinh thần. Hiện nay, việc Chân Sư thâu nhận đệ tử vẫn đang tiếp tục.
–Double. Thể tình cảm. Khi khác lại có nghĩa là thể sinh lực, tùy trường hợp.
–Ego (Lat.) Chữ có hai nghĩa, ‘ego’ với chữ ‘e’ nhỏ là phàm nhân, phàm ngã; ‘Ego’ với chữ ‘E’ lớn là chân nhân, chân ngã, con người thật. Đây là phần linh hồn thiêng liêng trường tồn qua bao kiếp sống so với phàm ngã (ego, personality) là vật vô thường, tan biến sau mỗi kiếp.
–Elementals. Tinh linh, linh hồn của bốn hành trong thiên nhiên là Thủy (thủy tiên), Hỏa (hỏa tiên), Thổ (chú lùn, thổ địa), và Khí (phong tiên, thiên tiên). Là lực trong thiên nhiên.
Nói chung đó là những sinh vật ở bốn cảnh cao nơi cõi trần và cõi tình cảm, lo việc tạo dựng mặt hình thể của sự sống. Thường khi con người không thấy được chúng. Sinh vật chưa có ngã thức riêng, được sai khiến bằng thần chú để làm chuyện lành hay dữ tùy ý người sử dụng chú ngữ. Các phép thuật như hô phong hoán vũ chính là sự điều khiển các tinh linh này. Tinh linh đất như chú lùn tạo nên tinh thể đá, khoáng thạch, làm mùa màng chín, cây lá đổi màu; tinh linh không khí sinh ra gió, thủy tiên sống ở suối, thác, biển và sinh ra mưa bão v..v..Tinh linh tiến hóa cao có được ngã thức và thành thiên thần. Chính thiên thần điều khiển tinh linh tạo nên các thể con người trong giai đoạn tạo hình khi tái sinh, nhân gian gọi các ngài là bà mụ.
Tinh linh thấp kém ưa thích làm rung động nặng nề, thô kệch, hung bạo, nên có hiện tượng sát sinh để tế thần. Trên đường tiến hóa đi theo hình chữ V, tinh linh là sinh vật đang tiến hóa theo chiều đi xuống nên tuy có vị trí chính đáng trong thiên cơ, mục tiêu và đường lối hoạt động của chúng đối nghịch hẳn với người. Các tôn giáo lớn đều răn dạy tín đồ tránh xa chúng cùng lòng ham muốn việc tập luyện huyền thuật, vì huyền thuật xử dụng tinh linh mà với ai thân, tâm chưa trong sạch, chưa thông thạo huyền bí học, đó là việc làm tối nguy hiểm.
–Elementaries. Vỏ. Khi con người thật vào thiên đàng hay tây phương cực lạc là Devachan ở cõi hạ trí, họ trải qua cái chết lần thứ hai, bước ra khỏi thể tình cảm và để nó lại ở cõi tình cảm, với cái chết lần đầu là ta trút bỏ thể xác và thể sinh lực ở cõi trần. Thể tình cảm trở thành vỏ, căn nhà vô chủ không có con người thật trong đó, thể vẩn vơ nơi cõi tình cảm chờ ngày tan rã, dân gian gọi là hồn ma bóng quế.
Thể có thể bị lôi cuốn vào buổi cầu hồn, được linh hoạt nhờ năng lực của những ai hiện diện nơi ấy khiến thân nhân tưởng là người quá cố trở về, nhưng sự thật là con người thật không còn đó nữa mà chỉ là thể tình cảm đang tan rã, và phản ứng theo thói quen thành hình trong kiếp vửa qua.
–Esoteric. Bí truyền. 
– Ether. Ether, chất liệu thuộc bốn cảnh trên của cõi trần, còn dịch là chất dĩ thái.
–Etheric body.  (Etheric double.) Thể sinh lực, thể phách, có cấu tạo là chất ether, chất liệu ở bốn cảnh cao thuộc cõi trần. Ta được dạy là thể xác con người gồm hai phần, thể sinh lực và thân xác đậm đặc tương ứng với nhau. Trong diễn trình tạo bào thai lúc tái sinh, thể sinh lực được tạo trước như là cái khuôn rồi vật chất ba cảnh thấp của cõi trần (đặc, lỏng, khí) mới tụ lại quanh đó thành thân xác đậm đặc. Thể thấm nhuần xác thân; khi con người qua đời, thể tách khỏi thân xác bay vẩn vơ quanh phần mộ và dần tan rã. Ai nhậy cảm có thể thấy được thể ở gần mộ và tưởng là người chết hiện về. Hỏa táng làm thể tiêu tan mau lẹ, giúp cho việc siêu thoát nên đó là một trong những lý do khuyến khích việc hỏa thiêu.
Sinh lực prana từ mặt trời và lực từ những cõi cao tuôn qua thể sinh lực vào thể xác và làm linh hoạt nó. Thể sinh lực bao trọn thể xác làm ta có cảm giác. Thuốc mê làm tách rời nó khỏi xác thân nên ta mất cảm giác.
– Evolution. Cuộc tiến hóa theo hướng đi lên.
–Exoteric (Gr.)Công truyền. 
–Gnosis (Gr.) Hiểu biết. Thông giáo. Triết phái hưng thịnh vào ba thế kỷ đầu công nguyên.
– Gnostics (Gr.) Người theo thông giáo, đi tìm chân lý và minh triết.
–Guru.  Đức Thầy, Tôn sư, tiếng Ấn, gồm chữ ‘Gu - bóng tối’ và ‘Ru - ánh sáng’ ghép lại. Ai chỉ dạy, đưa ta từ cõi tối tăm đến nơi sáng suốt thì đó là bậc huấn sư.
–Hierarchy. Thiên Đoàn, còn được dịch là Đại đoàn chưởng giáo. Gồm các bậc tiến hóa cao điều hành cơ Trời hay cuộc tiến hóa, như Đức Phật, Đức Chúa và các Chân Sư, bậc đạo đồ và đệ tử. Chữ khác là Nhóm Huynh Đệ Chánh Đạo (The White Brotherhood).
–Higher Self. Chân nhân. Xem chữ Ego ở trên.
–Initiate. Vị đạo đồ, nói chung là ai đã có chứng đạo.
– Initiation. Chứng đạo.Sự tiến hóa của con người được đánh dấu bằng việc mở rộng tâm thức. Mỗi chặng như vậy được gọi là chứng đạo, chỉ mức độ phát triển tâm linh và nghi lễ xác định sự đạt tới mức độ ấy. Còn dịch là điểm đạo. Mục tiêu con người trong chu kỳ tiến hóa này là đạt tới lần chứng đạo thứ năm.
– Involution. Cuộc tiến hóa theo hướng đi xuống.
–Kali yuga. Thời Kali, còn gọi là thời mạt pháp dài 432.000 năm. Theo triết lý Ấn cuộc tiến hóa gồm bốn thời kỳ, thời Kali là thời hiện nay. Xin xem chữ Yuga.
– Kalpa. Kiếp, chu kỳ. Khoảng thời gian trong cuộc tiến hóa. Maha kalpa = Đại kiếp.
–Kama-loka (Sans.)  Những cảnh thấp nơi cõi tình cảm mà con người  ngụ tại đây một khoảng thời gian dài hay ngắn,sau khi qua đời. Ấy là trạng thái tâm thức mà không phải là nơi chốn địa lý.
–Kama Rupa (Sans). Thể tình cảm.
–Karma. Hành động, còn chỉ Luật Nhân quả. Có nhân quả lành và nhân quả không lành.
–Krishna (Sans.) Giáo chủ Ấn giáo, là tiền thân của đức Chúa, đức Di Lặc. 
–Kundalini. Luồng hỏa xà, nằm trong cột xương sống gồm ba đường uốn lượn như hình con rắn.
–Lemuria. Châu Lemuria. Có trước châu Atlantis, là nơi cư ngụ của mẫu chủng thứ ba.
–Linga Sharira (Sans.) Thể sinh lực. 
–Logos (Gr.)Thượng Đế biểu lộ. Còn gọi là Ngôi Lời.(John I:1-3.) Ta có Hành Tinh Thượng Đế (Planetary Logos) là Đấng cao cả nhất trên địa cầu hay các hành tinh khác, coi sóc việc tiến hóa của hành tinh. Ngài còn được gọi dưới nhiều tên như ông Trời, Chúa Cha (không phải Jehovah, vốn là thần của bộ lạc Do Thái khi xưa), đấng Cha lành. Trên các Ngài là vị Thái Dương Thượng Đế (Solar Logos) phụ trách việc tiến hóa trong thái dương hệ. Vị chịu trách nhiệm của nhiều thái dương hệ là Vũ Trụ Thượng Đế  (Cosmic Logos), và trên nữa là ... chắc không cần phải đi xa hơn ! Phụ tá cho Ngài là những Đấng Cao Cả như đức Phật, đức Di Lặc (đức Chúa) và các Chân Sư.
– Lord of Civilisation (Mahachohan). Đức Văn Minh, Ngài đạt bẩy lần chứng đạo, Vị đứng đầu ngành thứ ba trong Thiên đoàn,  chức vụ của Ngài là trông coi nền văn minh của nhân loại. Ngài thể hiện  trí năng của nhân loại trên địa cầu qua sinh hoạt thuộc cung ba và bốn cung phụ. Maha (đại) + Chohan.
Giống như chức vụ Huấn Sư Thế Giới, các Đấng Cao Cả thay phiên nhau đảm nhiệm chức vụ này theo thời gian. Đức Văn Minh hiện nay được cho biết là Chân Sư Rakoczi thuộc cung bẩy, do cung bẩy đang tới  ảnh hưởng nhân loại thay cho cung sáu đang rút dần.
–Lower Self. Phàm nhân, xin đọc chữ Ego.
–Macrocosm. Đại vũ trụ, hay thái dương hệ.
–Magic. Huyền thuật. Huyền thuật là một tựa như con dao, tùy theo dụng ý lành hay không lành mà ta có chánh thuật hay ma thuật.
–Magician. Thuật sĩ, người thông thạo và sử dụng huyền thuật.
–Mahachohan.  Xin đọc chữ Lord of Civilisation.
–Mahamanvantara. Thời kỳ trọn thái dương hệ linh hoạt. Maha (đại) + Manvantara.
–Mahatma (Sans.)  Bậc thánh nhân, đạt từ sáu lần chứng đạo trở lên. Maha (đại) + Atma.
–Maitreya. Đức Di Lặc, là đức Chúa của tây phương. 
– Manas. Trí năng, nguyên lý Trí, chia làm hai là thượng trí hay trí trừu tượng ở cõi thượng thiên, cõi vô sắc tướng - arupa là ba cảnh cao của cõi trí, và hạ trí hay trí cụ thể ở cõi hạ thiên, cõi sắc tướng - rupa là bốn cảnh thấp.
–Mantrams. Chú ngữ, là các chữ được chọn lựa và sắp xếp để khi xướng lên sinh ra làn rung động đặc biệt. Còn viết là Mantra.
–Manu. Đức Bàn Cổ, Vị đạt tám lần chứng đạo và thuộc cung một. Ngài đứng đầu một ngành trong Thiên đoàn, trông coi sự tiến hóa của một mẫu chủng.
–Manvantara. Giai đoạn linh hoạt đối chọi với giai đoạn ngơi nghỉ pralaya, dài ngắn thay đổi tùy theo đó là sự linh hoạt của một thái dương hệ hay hệ hành tinh. Thường dùng để diễn tả thời kỳ linh hoạt của hành tinh và bẩy mẫu chủng của nó.
–Master. Chân Sư, đức Thầy, chỉ bậc đạt năm lần chứng đạo trở lên, có hoặc không thâu nhận đệ tử. Đây là danh từ chúng ta gọi các Ngài, còn thì các Ngài tự xưng ḿnh là huynh trưởng, người đi trước ta một đoạn trên đường tiến hóa. Một trong các Chân Sư quen thuộc là Đức Jesus, Vị đã cho Đức Chúa (Đức Di Lặc, thầy của Ngài) mượn xác trong ba năm cuối đời ngài ở Palestine để giảng đạo. Thánh Paul, ngài Long Thọ (Nagarjuna) là những Chân Sư khác, đức Khổng Tử cũng là một vị Đại Chân Sư.
–Maya (Sans).Huyễn ảnh.
–Mayavi Rupa. Huyễn thể, thể tạm, do bậc đạo sư dùng ý chí tạo ra để dùng trong ba cõi thấp. Thể không có liên hệ gì với thể xác, làm bằng chất liệu thanh nhất ở cõi tình cảm, đi qua được mọi vật không bị ngăn trở.
–Microcosm. Tiểu vũ trụ, là con người.
–Miracle. Phép lạ. MTTL dạy rằng không có phép lạ, mọi việc xẩy ra theo luật và ai làm ra điều gọi là ‘phép lạ’ chỉ có nghĩa họ sử dụng những luật mà người đời chưa biết. 
–Monad. Chân thần, là điểm linh quang phát xuất từ Thượng đế.
–Mysticism. Huyền học.
–Nirmanakaya. Bậc toàn thiện từ chối không nhập Niết Bàn là cực lạc tinh thần cao nhất, mà chọn đời hy sinh, gia nhập hàng ngũ các đấng vô hình để che chở nhân loại trong vòng nhân quả cho phép. Một trong ba con đường sau khi con người đắc quả Phật.
–Nirvana (Sans.) Niết Bàn.
– Note. Nốt của chân nhân.
Việc quá quen thuộc với thế giới vật chất hữu hình, sờ mó được khiến chúng ta khó nắm lấy cái chân lý là thế giới được tạo do âm thanh (Ngôi Lời), và mỗi trình độ tâm thức hay tính khí đều có một nhịp rung động riêng, một âm thanh căn bản. Ở cõi vô hình nơi linh hồn trú ngụ, điều phân biệt mức cao thấp của những linh hồn là ánh sáng và âm thanh mà linh hồn phát ra. Nói một cách bóng bẩy mà rất cụ thể, linh hồn biết rõ nốt căn bản mà nó muốn làm ngân vang trong một kiếp hay một chuỗi nhiều kiếp, nốt ấy có những phụ âm và mỗi lần tái sinh, linh hồn cố gắng học hỏi sao cho một phụ âm được tròn đều, trong trẻo, vang dội.
Diễn tả rõ hơn, mỗi kiếp sống có một nốt, nốt ấy có thể là thương yêu, vui vẻ, sáng suốt, hy sinh hay quyết tâm, và người càng tiến hóa nốt càng phức tạp, đa dạng mà cũng rất tinh tế. Khi âm vang trong một kiếp chưa được như ý muốn, linh hồn sẽ tái sinh để làm toàn thiện, xong âm này rồi tới âm kia. Đây là ý được nhắc tới phớt qua trong chữ 'Ray - Cung' bên dưới. Ý thật của câu 'đồng thanh tương ứng ...' là khi hai thể cùng rung động ở một nốt hay cùng một tần số, ta có sự thu hút lẫn nhau. Hai linh hồn cùng phát triển về một khuynh hướng, thuộc cùng một cung hay cung tương ứng, sẽ rung động nhịp nhàng với nhau, cho ra hiện tượng tâm đầu ý hợp.
Hiểu về làn rung động cho ta ý niệm rõ hơn đối với việc việc tu thân, nó được thực hiện ở thế giới hữu hình lẫn vô hình. Khi ta phát sinh một ý, mỗi hạt nguyên tử trong các thể rung động theo ý đó, và tu thân là nâng làn rung động cho cao hơn. Sự trang trải nhân quả bắt đầu từ các hạt nguyên tử, tức khởi sự từ vật nhỏ nhất; vì vậy hành động cầu xin thần thánh giải tội, cúng sao, xá  tội, có năm toàn xá, chỉ là hình thức hối lộ, hiểu sai luật trời và không có ích gì.
–Occult Sciences. Khoa học huyền bí, cũng có tên là Esoteric Sciences.
–Occultism.Huyền bí học. Khoa học về những bí ẩn trong trời đất. Môn học có nhiều trình độ, với người đi sâu họ có sự hiểu biết về các luật trong vũ trụ, có thể sử dụng sự hiểu biết ấy cho ra kết quả mà ta gọi là huyền thuật (dân gian gọi là phép lạ). Hiện tượng đi trên nước, hóa bánh và cá với số lượng dồi dào mà đức Chúa làm là huyền thuật, ai cũng có thể làm được nếu biết cách. Ở mức thông thường hơn, đó là các đạo sĩ Yogi sống lâu, có thể được chôn nhiều ngày mà vẫn sống, biết tàng hình, phân thân. Ở mức thấp nhất, mỗi chúng ta là huyền bí gia khi suy nghĩ hay thốt lời, vì tư tưởng là vật có sức mạnh và sức sống riêng, ta có thể dùng tư tưởng hay lời nói để làm người vui vẻ hay gây tổn thương cho họ; khi dùng lực như vậy ta đã vô tình sử dụng huyền thuật và trở thành huyền bí gia dù không ý thức.
–Occultist.Huyền bí gia, chỉ bậc đạo sư thông thạo khoa học huyền bí, nhưng cũng thường áp dụng cho ai  chỉ tìm hiểu về khoa này
–Path. Đường đạo.
–Paths. Chánh đạo và Tả đạo.
–Permanent atom. Hạt nguyên tử trường tồn, con người có năm hạt thuộc năm cõi tiến hóa của nhân loại. Mỗi thể xác, tình cảm, trí có một hạt nguyên tử trường tồn, cái vẫn tồn tại sau khi con người qua đời trút bỏ các thể khiến chúng tan rã. Hạt lưu trữ mọi kinh nghiệm con người thu thập được ở một cõi trải qua bao thời gian. Chính xác thì đó là các trung tâm lực nhỏ. Khi tái sinh thiên thần dựa theo chi tiết tàng trữ trong hạt để tạo các thể thích ứng với nhân quả.
–Personality. Phàm nhân. Xem chữ Ego ở trên. Con người được xem là gồm hai phần:
- Tam thể thượng  - Triad hay Chân nhân (Atma -Ý Chí tinh thần, Buddhi - Trực Giác, Thượng trí) và
- Tứ thể hạ - Personality, hay Phàm nhân (Hạ trí, Tình Cảm, Thể Sinh lực và Prana).
Chân nhân là phần bất hư hoại, bất tử và tái sinh nhiều bận để tiến hóa. Mỗi lần tái sinh nó có một phàm nhân mới.
–Plane.  Cõi. Thái dương hệ có bẩy cõi, tùy mức độ nặng nhẹ của nguyên tử cấu tạo nên cõi ấy, càng lên cao chất liệu càng thanh. Mỗi cõi chia làm bẩy cảnh, cảnh thanh nhẹ ở cao nhất và thô trược nhất ở thấp nhất. Đây không phải là nơi chốn địa lý xác định mà là trạng thái tâm thức. 
Cõi Thiêng Liêng -Adi (Tối Đại Niết Bàn, Mahanirvana)
Cõi Chân Thần  - Anupadaka (Đại Niết Bàn, Paranirvana)
Cõi Tinh Thần - Atma (Niết Bàn, Nirvana)
Cõi Trực Giác - Buddhi (Bồ Đề)
Cõi Trí (Mental plane), còn gọi là Thượng giới, chia làm hai:
a/ Ba cảnh trên ứng với óc trừu tượng gọi là cõi thượng trí hay thượng thiên, vô sắc giới  (arupa, tư tưởng trừu tượng không diễn tả bằng hình rõ ràng như cái nhà, con vật mà bằng biểu tượng và mầu sắc; thí dụ ước nguyện thanh cao, lòng sùng tín biểu lộ bằng hình sao nhấp nháy mầu tím hay xanh dương).
b/ Bốn cảnh thấp ứng với óc cụ thể còn gọi là cõi hạ trí hay hạ thiên, sắc giới (rupa, tư tưởng biểu lộ bằng hình, thí dụ ta thương mến và nghĩ tới ai thì tạo nên hình nhỏ bé của họ trong thể tình cảm của ta, người có thông nhãn thấy hình ấy và do đó 'đọc' được ý nghĩ của ta, hay tín đồ dự lễ tại chùa, nhà thờ nhưng lòng ao ước nữ trang, nhà cửa thì hình các ý này cũng thấy rõ trong thể của họ !). Đây là tây phương cực lạc, hay thiên đàng trong tôn giáo, chỗ ta ngơi nghỉ (Devachan) giữa hai kiếp sống chờ đợi tái sinh. Devachan đích thực được ghi là cảnh thứ tư cõi trí.
Cõi Tình Cảm (Astral plane) còn được dịch là Trung giới.
Chữ astral -astre: tinh tú- được dùng vì với người quan sát từ cõi trần, nó lấp lánh như ánh sao.
Cõi Vật Chất (Physical plane), còn gọi là hồng trần, Hạ giới. Ba cảnh thấp nhất của cõi trần là đặc, lỏng và hơi; bốn cảnh cao gọi là cảnh ether.
Cõi và cảnh không phải là nơi chốn không gian riêng biệt, mà xếp chồng và thấu nhập vào nhau tựa như khí lan vào chất đặc, lỏng. Theo cơ tiến hóa, con người sau khi làm chủ một cõi sẽ tiến sang cõi trên nó để học hỏi tiếp; như vậy sau cõi trần, ta phát triển và kiểm soát tình cảm thay vì để chúng chế ngự, rồi kế đó học sử dụng lý trí, dùng óc thông minh tìm tòi học hỏi.
–Planetary Logos. Hành tinh Thượng Đế. Đấng Cao Cả biểu lộ qua một bầuhành tinh, tương ứng với con người biểu lộ qua thân xác.
–Pralaya (Sans.) Giai đoạn ngơi nghỉ đối chọi với giai đoạn linh hoạt Manvantara, dài ngắn thay đổi cho trọn thái dương hệ hay một bầu hành tinh.
–Prana. Sinh lực, phát xuất từ mặt trời được thể sinh lực hấp thu.
–Principles. Nguyên lý. Con người có năm hay bẩy nguyên lý tùy theo cách phân chia (Atma, Buddhi, Manas, Tình cảm, Prana).
–Pythagoras. Nhà toán học và triết gia Pythagoras, sinh trên đảo Samos khoảng 586 năm trước tây lịch, dạy về thái dương hệ với trái đất đi quanh mặt trời, luật tái sinh, toán học, siêu hình học. Ngài lập trường nổi tiếng tại Crotona ở miền nam nước Ý. Là tiền thân của Chân Sư K.H.
–Quaternary. Tứ thể hạ. Phàm nhân trong ba cõi. Có những cách phân chia khác nhau, một cách nói rằng chúng gồm các phần sau.
1. Hạ trí.
2. Thể tình cảm.
3. Prana, hay nguyên lý Sống.
4. Thể sinh lực, hay thể phách.
– Ray. Cung, một trong bẩy năng lực căn bản của Thượng đế với bẩy tính chất, gồm ba cung chính và bốn cung phụ của cung ba. Cung là đặc tính của một thể, một người. Nói giản dị thì mỗi kiếp ta chọn một cung chính cho phàm ngã để phát triển con người thiêng liêng.
Các cung chính:
Cung 1. Ý Chí hay Quyền lực
Cung 2. Từ Ái - Minh Triết
Cung 3. Trí tuệ Linh Hoạt - Óc Thích Nghi.

Cung phụ.
Cung 4. Hòa Hợp, Mỹ Lệ, Nghệ Thuật.
Cung 5. Hiểu Biết Cụ Thể hay Khoa Học.
Cung 6. Lý Tưởng Trừu Tượng hay lòng Hiến Dâng.
Cung 7. Nghi Lễ, hay Luật.
–Rebirth. Tái sinh, luân hồi.
–Reincarnation. Tái sinh, luân hồi.
–Root Race. Mẫu chủng. Giống dân chính. Mỗi mẫu chủng có 7 chi chủng (sub-race, giống dân phụ),   và mỗi chi lại có 7 nhánh phụ (branches).
Sách ghi rằng trong đời sống của trái đất có 7 giống dân chính xuất hiện, hai giống dân đầu đã mất tích hẳn, giống dân thứ ba còn lưu lại dấu vết là thổ dân ở Úc hay bushman ở sa mạc Kalahari của Nam Phi. Giống dân thứ tư đa số ở Châu Á, ngày nay là tầng lớp thấp nhất của Trung Hoa, với Nhật Bản là chi chủng thứ bẩy. Mẫu chủng thứ năm Aryan có những chi chủng là người Ấn, tây phương, người Mỹ, v.v.. Chi chủng thứ sáu của mẫu chủng thứ năm đang xuất hiện. Còn hai giống dân chót chưa ra đời.
Theo nguyên tắc vào một thời điểm chỉ có ba giống dân hiện diện cùng lúc trên địa cầu. Mỗi giống dân chính có đặc tính riêng, có tính chất phải khai mở trong thiên cơ: giống dân thứ tư phát triển tình cảm, giống dân thứ năm phát triển trí tuệ và giống dân thứ sáu là trực giác. Ta chớ lầm cái chót với chi thứ 6 của giống dân thứ 5 có liên hệ với giống dân thứ sáu, nhưng đặc tính nổi bật của chi này sẽ là việc sử dụng óc trừu tượng mà không phải hoàn toàn hướng về trực giác. Lại nữa, nó không có nghĩa tất cả người Á châu đều thuộc giống thứ tư và người da trắng nào cũng thuộc giống thứ năm; các linh hồn tiến hóa đầu thai vào bất cứ nơi nào cần để phụng sự và cũng để trang trải nhân quả, hay học điều cần phải học.
–Samadhi. Trạng thái đại định trong thiền.
–Self. Cái ngã. Có hai cái Ngã trong con người. Chân ngã thiêng liêng, trường tồn còn phàm ngã có thú tính, tan rã sau mỗi kiếp.
– Sensa, hay Senzar. Ngôn ngữ huyền bí mà các bậc đạo sư sử dụng khắp thế giới. Loại chữ tượng hình.
–Shamballa. Nơi cư ngụ của những đấng Cao Cả, nằm trong sa mạc Gobi.
–Shell. Vỏ, xin đọc chữ Elementaries.                                             
–Skandhas. Uẩn.
– Solar Logos. Thái dương Thượng Đế. Vị đứng đầu một thái dương hệ.
–Soul. Linh hồn, chân nhân, chân ngã.
–Spiritualism. Thông linh học, chuyên tìm hiểu việc liên lạc với người đã khuất và các hiện tượng huyền bí.
–Sthula Sharira. Thể xác đậm đặc.
– Telepathy. Viễn cảm, thường dịch là thần giao cách cảm.
–Theosophia (Gr.) Minh Triết Thiêng Liêng (MTTL), gồm Theo (trời, thần linh) và Sophia (Minh Triết), tiếng Hy Lạp. Còn dịch là Thông Thiên Học (TTH) là phần chân lý căn bản nằm trong các tôn giáo lớn.
–Thought forms. Hình tư tưởng con người tạo ra. Mỗi tư tưởng cụ thể hay trừu tượng, tình cảm con người phát ra đều tạo nên hình ở cõi thanh, chúng có mầu sắc và hình dạng tương ứng với đặc tính của các ý. Nếu ý mạnh, hình có thể phóng tới đối tượng, mang theo năng lực của nó và đem chuyện lành hay chuyện dữ tới họ. Lời cầu nguyện của bà mẹ là một thí dụ, nó mang tình cảm thương yêu đến con bà cũng như lời cầu nguyện cho người chết có kết quả rất thực, giúp họ sớm thức tỉnh hơn với cảnh đời mới và thấy bình an trong những ngày đầu chuyển tiếp giữa hai lối sống.
–Triad. Tam thể thượng, con người tinh thần, sự biểu lộ của chân thần. Là chân nhân.
–Trinity, Triad. Tam nguyên hay ba ngôi, có trong mọi tôn giáo. Nơi con người đó là chân thần, chân nhân và phàm nhân.
–Vital body. Thể sinh lực. Xem Etheric body.
–Wesak. Lễ Đức Phật hiện vào ngày rằm tháng tư, ngày Phật Đản. Sách ghi rằng hằng năm vào dịp này tại một thung lũng trong rặng Himalaya, ở Tây Tạng, tất cả các Vị trong Thiên đoàn hiện diện và đúng giờ trăng tròn, Đức Thích Ca xuất hiện ban phép lành cho thế gian. Dân chúng trong vùng cũng tụ họp đông đảo cử hành lễ tại thung lũng.
–White Brotherhood. Thiên Đoàn. Xem chữ Hierachy ở trên.
–White Magic. Chánh thuật.
–Wisdom-Religion. Cũng là Theosophia. Là phần triết lý bí truyền nằm trong mọi kinh điển công truyền và các tôn giáo lớn.
–World Teacher. Vị Huấn Sư Thế Giới. Xem Bodhisattva ở trên. 
–Yoga (Sans.) Phép tập luyện để đạt sự giải thoát và hòa hợp với tinh thần thiêng liêng.
–Yogi. Đạo sĩ hay người tập Yoga.
–Yuga (Sans.) Thời kỳ. Thế giới trải qua bốn thời kỳ liên tiếp nhau, cái này sau cái kia. Đó là.
Satya Yuga: thời hoàng kim
Treta Yuga.
Dwapara Yuga.
Kali Yuga, thời mạt pháp, là thời hiện nay.
–Zoroastrianism. Hỏa giáo của Ba Tư khi xưa, giáo chủ Zoroastre là tiền thân của đức Phật Thích Ca.

Tài liệu sử dụng.
–  The Key to Theosophy, HPB
– Letters on Occult Meditations, A.A. Bailey.
– Glossary of The Tibetan’s Terms. Meditation Mount.
– Từ Ngữ Thần Triết. Chi bộ Phụng Sự, Sài Gòn, 1968.